Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là sự kết tinh giữa tinh thần yêu nước của dân tộc với tư tưởng cách mạng khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ngày 2/9, Học viện Tài chính xin giới thiệu bài viết của đ/c Dương Quốc Quân - Bí thư chi bộ khoa Lý luận chính trị về công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thể hiện sự kết tinh giữa tinh thần yêu nước ngàn đời của dân tộc với tư tưởng cách mạng khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cuộc cách mạng “long trời lở đất” với khí thế tổng khởi nghĩa toàn dân buộc “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”[1], đưa đất nước bước vào kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 2/9, chúng ta càng thấy giá trị của ý chí độc lập dân tộc trong tư tưởng, cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người tìm đường, mở đường, dẫn đường cho dân tộc Việt Nam từ thế kỷ XX.
Cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn với cách mạng vô sản

Ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đặt chân lên con tàu Amiral Latouche Treville tại bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
Ngay từ đầu thế kỷ XX, lịch sử Việt Nam đã chứng kiến nhiều con đường cứu nước được lựa chọn, nhưng đều thất bại. Chỉ đến khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước và tiếp cận được với chủ nghĩa Mác – Lênin, con đường cách mạng vô sản mới được xác lập là lựa chọn đúng đắn và duy nhất để giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh nhận ra rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới thực sự giải phóng được dân tộc khỏi ách nô lệ. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”[2].

Bản yêu sách Tám điểm của nhân dân Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc và nhóm người Việt Nam yêu nước gửi Nghị viện Pháp và các đoàn đại biểu dự Hội nghị Véc- xây (6-1919)
Tư tưởng này không chỉ là kết quả của lý luận mà còn bắt nguồn từ thực tiễn người lao động bị áp bức ở khắp các châu lục mà Người đã trực tiếp chứng kiến. Vì vậy, việc giải phóng dân tộc phải đồng thời gắn liền với giải phóng con người, bảo đảm cho nhân dân được “ăn no, mặc ấm”. Chính sự lựa chọn kiên định này đã giúp Người tập hợp lực lượng, thức tỉnh và tổ chức quần chúng đấu tranh. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là minh chứng cho sự đúng đắn của con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đưa dân tộc thoát khỏi kiếp nô lệ và làm chủ vận mệnh đất nước.
Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết

Một trong những sáng tạo nổi bật của Hồ Chí Minh là giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong điều kiện Việt Nam thuộc địa. Nếu như Quốc tế cộng sản đề cao giải phóng giai cấp, thì Hồ Chí Minh, từ thực tiễn đất nước, xác định rằng giải phóng dân tộc là nhiệm vụ tối thượng. Đó là bước ngoặt trong nhận thức và hành động cách mạng ở Việt Nam. Người dẫn dắt dân tộc từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, truyền bá học thuyết này như một cẩm nang để giải phóng dân tộc. Tư tưởng ấy được thể hiện ở “cam kết chính trị” ngay khi Đảng Cộng sản Việt Nam vừa mới ra đời. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (1930) xác định phương hướng chiến lược: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[3]. Nhiệm vụ giải phóng dân tộc được cụ thể hóa tại Hội nghị Trung ương 8 (1941), khi Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: “Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng… thì quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[4]. Cách mạng tháng Tám là kết quả trực tiếp của việc đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các nhiệm vụ giai cấp sau này trong một xã hội độc lập, có chủ quyền.
Kết hợp sáng tạo giữa truyền thống dân tộc và chủ nghĩa Mác – Lênin
Một đóng góp to lớn khác của Hồ Chí Minh là việc kết hợp chủ nghĩa yêu nước truyền thống với học thuyết Mác – Lênin trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam. Nhà sử học Pháp Charles Fourniau nhận định: Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa Mác một cách độc đáo, gắn liền cuộc cách mạng dân tộc với phong trào cộng sản quốc tế, tạo nên bản sắc riêng cho cách mạng Việt Nam. Người biến lý luận thành hành động, từ việc vận động quần chúng, xây dựng tổ chức cách mạng, đến chỉ đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền[5]. Trong điều kiện của một nước thuộc địa như Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: chủ nghĩa yêu nước chân chính là nguồn sức mạnh lớn nhất. Người nhận thấy rằng, dù thuộc tầng lớp nào – công, nông, tư sản, địa chủ – thì tất cả người dân thuộc địa đều mang trong mình nỗi đau mất nước và lòng yêu nước sâu sắc. Từ đó, Hồ Chí Minh chủ trương tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp, vào mặt trận dân tộc thống nhất. Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” (1927) đã khẳng định cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc và cần có lực lượng toàn dân tham gia. Người chỉ rõ: “Dân tộc cách mệnh thì chưa phân biệt giai cấp, nghĩa là sỹ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”[6]. Quan điểm toàn dân làm cách mạng giúp khắc phục hạn chế của các khuynh hướng cứu nước trước đó. Khi thời cơ đến, lời hiệu triệu “toàn dân tộc hãy đứng dậy” của Người đã đánh thức tinh thần yêu nước mãnh liệt, tạo nên một cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân mang tên Cách mạng tháng Tám – cuộc cách mạng mang bản chất nhân dân sâu sắc. Sau này, Hồ Chí Minh từng viết: “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay… kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường”[7]. Tư tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội không chỉ là lý tưởng của Người, mà còn trở thành định hướng chiến lược xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám là minh chứng cho sự thành công của sự kết hợp này. Nó không chỉ mang lại độc lập dân tộc mà còn tạo tiền đề cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội sau này.
Vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới và bảo vệ Tổ quốc

Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển trong thời kỳ đổi mới. Đại hội Đảng lần thứ XIII (2021) khẳng định tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Trong kỷ nguyên mới – kỷ nguyên hội nhập sâu rộng, chuyển đổi số và phát triển bền vững – tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục là nền tảng định hướng chiến lược cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhằm giữ vững chủ quyền quốc gia, phát huy nội lực, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Quan điểm về sức mạnh toàn dân, về lòng dân là “gốc” của thế trận quốc phòng và an ninh nhân dân, tiếp tục được khẳng định trong chiến lược phát triển quốc gia. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) là thành quả vĩ đại của sự kết hợp giữa tinh thần yêu nước của dân tộc với tư tưởng cách mạng Hồ Chí Minh. Cuộc cách mạng không chỉ đưa dân tộc Việt Nam thoát khỏi ách nô lệ mà còn mở ra con đường phát triển độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc – mà cốt lõi là ý chí độc lập dân tộc thật sự – vẫn tiếp tục soi đường cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau, theo đúng tinh thần mà Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau”[8].
Học viện Tài chính tích cực học tập và làm theo lời Bác


Giáo dục cho sinh viên về lòng yêu nước, truyền thống lịch sử, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam, vai trò và công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh của khoa Lý luận chính trị tại Học viện Tài chính
Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 là dịp để mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên Học viện Tài chính nhận thức sâu sắc hơn về giá trị của độc lập dân tộc, vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước.

Hội đồng thẩm định chương trình đào tạo kinh tế chính trị - tài chính của Học viện Tài chính (3/2025)
Tiếp nối tinh thần đó, Học viện đang tích cực đổi mới công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, trong đó nổi bật là việc mở chương trình đào tạo Kinh tế chính trị - tài chính, một bước đi chiến lược nhằm gắn kết lý luận kinh tế chính trị Mác – Lênin với thực tiễn tài chính – kinh tế Việt Nam hiện đại. Sự ra đời của chương trình đào tạo này không chỉ góp phần bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực tài chính – kinh tế mà còn khẳng định vai trò tiên phong của Học viện Tài chính trong đào tạo đội ngũ cán bộ vừa vững lý luận chính trị và kiến thức chuyên môn tài chính - kế toán, vừa am hiểu thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG ST, Hà Nội, 2011, t. 4, tr.3
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG ST, Hà Nội, 2011, t. 12, tr.30
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG ST, Hà Nội, 2011, t. 3, tr.1
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đảng toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội, 2000, t7, tr13
[5] Charles Fourniau: Một nhà yêu nước và một nhà cách mạng mẫu mực, in trong cuốn Ho Chi Minh, Notre camarade, Edition, Sociales, Paris, 1970,tr.21
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG ST, Hà Nội, 2011, t. 2, tr.287
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB CTQG ST, Hà Nội, 2011, t. 7, tr.39
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.65.
Chi bộ khoa Lý luận chính trị
Số lượt đọc: 484