MENU

Hoạt động khoa học và công nghệ tại Học viện Tài chính theo quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong bối cảnh mới

Thứ sáu, 27/03/2020 - 15:28
Khoa học và công nghệ (KH&CN) cùng với lao động của con người là hai trong nhiều nhân tố cải tiến, phát triển không ngừng để tăng năng suất lao động, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của con người.

Nhận thức rõ được điều này Đảng và nhà nước đã luôn có định hướng  rõ ràng  nhằm  thúc đẩy KH&CN đóng góp thiết thực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Nằm trong chủ trương chung đó, Học viện Tài chính góp phần không nhỏ vào thành tựu chung của KH&CN nước nhà, một mặt kiên trì các giải pháp tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong dài hạn, mặt khác cần tìm cách đi riêng để phát triển bứt phá, đưa KH&CN, đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển Học viện Tài chính theo dòng chảy thời đại.

1. Quan điểm của Đảng về hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ

Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rất rõ KH&CN là đòn bẩy trong quá trình tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam sớm trở thành nước công nghiệp.

Chính vì vậy, trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII có những nhận định, đánh giá về KH&CN: “Trong những năm qua, khoa học, công nghệ đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Khoa học xã hội và nhân văn góp phần quan trọng trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; các ngành khoa học cơ bản, KH&CN liên ngành, khoa học mới tiếp tục phát triển, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Một số ngành khoa học, công nghệ mũi nhọn đã có đóng góp tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội. Quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ có đổi mới. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ có bước tiến bộ. Thị trường khoa học, công nghệ đã hình thành và bước đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, khoa học, công nghệ chưa thật sự gắn kết và trở thành động lực phát triển kinh tế - xã hội.  Đầu tư cho khoa học, công nghệ còn thấp, hiệu quả sử dụng chưa cao. Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ chậm đổi mới. Thị trường KH&CN phát triển chậm. Công tác quy hoạch, phát triển khoa học, công nghệ chưa gắn kết chặt chẽ với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh. Hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ còn thiếu định hướng, hiệu quả còn thấp”, và đề ra phương hướng phát triển và ứng dụng KH&CN thời gian tới như sau:

(i) Phát triển mạnh mẽ và làm cho KH&CN thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm quốc phòng - an ninh. Đến năm 2020 KH&CN Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030 có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới;

(ii) Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung cần được ưu tiên tập trung đầu tư trước một bước trong hoạt động của các ngành, các cấp. Các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội đều phải xây dựng trên những cơ sở khoa học vững chắc. Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ của đất nước, chiến lược thu hút công nghệ từ bên ngoài và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI và hướng ưu tiên trong hội nhập quốc tế;

 (iii) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động KH&CN, nhất là cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính.Có cơ chế thúc đẩy đổi mới công nghệ theo hướng ứng dụng công nghệ mới, công nghệ hiện đại. Huy động mạnh mẽ nguồn vốn xã hội và các nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho phát triển KH&CN. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức KH&CN, xây dựng một số trung tâm nghiên cứu hiện đại. Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống các tổ chức dịch vụ KH&CN, phát triển thị trường KH&CN. Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức KH&CN công lập;

(v) Tăng cường liên kết giữa các tổ chức KH&CN với doanh nghiệp; mở rộng hình thức liên kết giữa Nhà nước với các nhà khoa học và doanh nghiệp, đồng thời tôn vinh và tạo môi trường thuận lời cho đội ngũ cán bộ KH&CN, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp.  Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về KH&CN. Bên cạnh đó tập trung đầu tư phát triển một số viện KH&CN, trường đại học cấp quốc gia và một số khu công nghệ cao, vùng kinh tế trọng điểm theo mô hình tiên tiến của thế giới”.

Trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng, lần đầu tiên khoa học, công nghệ được đưa vào một mục riêng (mục VI- Phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ), không gộp vào với các vấn đề khác như: Giáo dục đào tạo, văn hóa, môi trường như trong các Văn kiện Đại hội trước. Việc trình bày thành một mục riêng đã cho thấy tầm quan trọng của khoa học, công nghệ và nhận thức mới của Đảng ta về phát triển khoa học, công nghệ trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

2. Thành tựu về hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của nước ta giai đoạn vừa qua

KH&CN là một trong những lĩnh vực được Đảng và Nhà nước quan tâm từ rất sớm, đến nay nhìn lại hơn 30 năm đổi mới, đã có những đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của đất nước.

- Hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện: Các luật chuyên ngành trong lĩnh vực KH&CN đã được Quốc hội ban hành: Luật Khoa học và công nghệ (2013) thay thế Luật Khoa học và công nghệ năm 200; Luật Đo lường (2011); Luật Sở hữu trí tuệ (2005), sửa đổi bổ sung năm 2009; Luật Công nghệ cao (2008); Luật Năng lượng nguyên tử (2008); Luật Chất lượng sản phẩm hàng hóa (2007); Luật Chuyển giao công nghệ (2006); Luật Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật (2006)…. Ngoài các luật chuyên ngành, Quốc hội đã ban hành một số luật có liên quan đến KH&CN như Luật Bảo vệ môi trường (2014), bổ sung, thay thế Luật Bảo vệ môi trường năm 2005; Luật Đa dạng sinh học (2008); Luật Công nghệ thông tin (2006),... Hướng dẫn thực thi các luật về KH&CN là hàng loạt văn bản dưới luật như Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng, Thông tư hướng dẫn của Bộ trưởng các Bộ, ngành liên quan, hình thành hàng lang pháp lý phục vụ cho công tác quản lý KH&CN trong cả nước.Đặc biệt là Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 (luật số 29/2013/QH13) được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18/6/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014, đã thể hiện sự quan tâm và xác rõ vai trò của KH&CN đối với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh mới.Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 quy định rõ hơn, phù hợp với tinh thần Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 về nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động KH&CN, chính sách của Nhà nước về phát triển hoạt động KH&CN….

- Đóng góp của KH&CN cho sự phát triển của đất nước ngày càng tăng: Trong giai đoạn 2011 - 2018,

Đối với lĩnh vực kinh tế: Đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp và 38% giá trị gia tăng trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi; góp phần đưa chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trong năm 2018 tăng 10,2% so với năm 2017, vượt chỉ tiêu kế hoạch 9%. Thị trường KH&CN phát triển mạnh mẽ hơn. Cả nước có 15 sàn giao dịch công nghệ, 50 vườn ươm công nghệ, 186 tổ chức dại diện sở hữu công nghiệp. Mạng lưới các trung tâm ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KH&CN phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở 63 tỉnh, thành phố cũng được quan tâm đầu tư nâng cấp. Nhiều thành tựu KH&CN được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực y tế, nông nghiệp, xây dựng, thông tin, ngân hàng, du lịch. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) trong tăng trưởng của nền kinh tế ngày một lớn, năm 2018 đạt 43,5% (bình quân 3 năm 2016-2018 đạt 42,18%, cao hơn nhiều giai đoạn 2011-2015 là 33,58%) vượt mục tiêu 5 năm 2016-2020 Quốc hội giao (khoảng 30%-35%). Năm 2018, xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam tiếp tục tăng 2 bậc lên vị trí 45/126 quốc gia và nền kinh tế, dẫn đầu nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp (năm 2017 tăng 12 bậc, từ vị trí 59 lên vị trí 47). Góp phần vào thành quả chung đó, ngành KH&CN trong năm 2018 đã có những bước chuyển mình đáng ghi nhận, khẳng định vị trí, vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực KH&CN, cùng đất nước tiếp tục phát triển, hội nhập sâu rộng với thế giới.

Trong mấy năm gần đây, Chính phủ đã đã tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng, đổi mới và chuyển giao công nghệ; tập trung phát triển các sản phẩm theo chuỗi giá trị sản xuất; hỗ trợ doanh nghiệp KH&CN, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo;…Đặc biệt là việc tận dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mang lại.

Tuy nhiên, Diễn đàn Kinh tế thế giới đánh giá: Việt Nam đang tụt hậu về mức độ sẵn sàng công nghệ, về đổi mới sáng tạo và về năng suất lao động so với một số nước ở Châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia và Singapore.Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, chi tiêu cho nghiên cứu phát triển cả khu vực Nhà nước và tư nhân của Việt Nam hiện nay chỉ khoảng 0,44% GDP, khá thấp so với bình quân của thế giới là 2,23% GDP (Thái Lan 0,78%; Singapore 2,2%; Malaysia 1,3%, Trung Quốc 2,1% GDP). Nếu không mạnh dạn đầu tư cho khoa học và công nghệ và đổi mới sáng tạo, chúng ta sẽ bị mắc kẹt trong cái hố năng suất thấp, giá trị gia tăng thấp và bẫy thu nhập trung bình. Do vậy, cả Nhà nước và và khu vực tư nhân cần nhận thức đúng tầm quan trọng của đầu tư cho khoa học và công nghệ và ưu tiên chi cho khoa học và công nghệ một cách tương xứng hơn, hiệu quả hơn; đồng thời, chú trọng tính thiết thực, hiệu quả, không làm theo phong trào, ứng dụng thấp, gây lãng phí.

3. Hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của Học viện Tài chính trong giai đoạn vừa qua

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học ở các trường đại học đã là một trong những nhiệm vụ chính của các trường đại học nói chung và Học viện Tài Chính nói riêng. Hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ của HVTC được quản lý thống nhất trong toàn Học viện, gồm: Khối đào tạo (cán bộ, giảng viên, sinh viên) và khối nghiên cứu (Viện Kinh tế - Tài chính và Viện Đào tạo quốc tế)...do vậy nó được gắn với yêu cầu, nhiệm vụ phục vụ giảng dạy và giải quyết các vấn đề học thuật phù hợp với chuyên ngành đào tạo, nhiệm vụ nghiên cứu của ngành, theo đơn đặt hàng của Nhà nước cũng như nhu cầu xã hội và các hoạt động đều thực hiện theo quy chế quản lý KH&CN.

(1) Hoạt động nghiên cứu KH&CN của giảng viên: Với nguồn nhân lực (707 cán bộ trong đó có 02GS, 54 PGS, 191 TS, 381 Ths, 101 CN), và cơ sở vật chất của Học viện như hiện nay, hàng năm Học viện thực hiện rất nhiều chương trình nghiên cứu khoa học các cấp, cụ thể:

- Về thực hiện Đề tài nghiên cứu KH&CN các cấp, biên soạn giáo trình tài liệu học tập:Trong 5 năm qua (2015 - 2019), Học viện Tài chính đã hoàn thành, nghiệm thu 05 đề tài cấp Nhà nước, 77 đề tài cấp Bộ, đề tài cấp Tỉnh, 634 đề tài NCKH cấp Học viện, 138 đề tài NCKH cấp Khoa cho, các công trình ngoài phục vụ công tác giảng dạy trực tiếp tai Học viện còn có những đóng góp không nhỏ vào hoạch định chính sách của Ngành và Nhà nước. Việc biên soạn giáo trình, tài liệu học tập đã đáp ứng kịp thời nhu cầu đào tạo các chuyên ngành của Học viện và của xã hội, tập trung kinh phí cho việc biên soạn mới, sửa chữa, viết lại, tái bản giáo trình, bài giảng gốc, tài liệu học tập. 5 năm qua, Học viện đã xuất bản 178 đầu sách phục vụ cho các chuyên ngành đào tạo tại Học viện (Bảng 1).

Bảng 1: Các hoạt động KH&CN của Học viện giai đoạn 2015 - 2019

STT

Danh mục

2015

2016

2017

2018

2019

1

Bài giảng gốc

5

8

7

4

11

2

Giáo trình (Xuất bản lần đầu)

4

7

8

11

15

3

Giáo trình (Tái bản)

4

4

3

6

2

4

Sách bài tập, Hướng dẫn thực hành

10

10

8

11

9

5

Đề án cấp học viện

3

3

2

0

1

6

Đề tài cấp học viện

110

136

158

120

110

7

Đề tài cấp khoa

23

34

26

20

35

8

Sách chuyên khảo, tham khảo

8

 

8

15

19

Nguồn: Tổng hợp của Ban Quản lý Khoa học

- Tổ chức thành công nhiều Hội thảo các cấp:Từ 2015 -2019,  Học viện đã chủ trì và phối hợp các Trường Đại học, Học viện và các cơ quan ngang Bộ tổ chức thành công 10 hội thảo Khoa học Quốc tế, 22 Hội thảo cấp Quốc gia, 07 Hội thảo cấp Học viện, hơn 30 Hội thảo cấp Khoa với tổng số hơn 3.250 bài viết của các nhà khoa học trong và ngoài Học viện. Các bài viết với những nội dung thiết thực nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.

- Hoạt động của tạp chí: Hiện nay 02 tạp chí của Học viện Tài chính đều nằm trong danh mục tạp chí khoa học chuyên ngành được tính điểm do Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước công bố danh sách.Trong 5 năm qua (2015 – 2019), Học viện đã xuất bản 60 số Tạp chí theo định kỳ với số lượng hơn 1.260 bài viết. Xuất bản 06 số tạp chí tiếng Anh với 117 bài viết; Số lượng bài báo đăng trên tạp chí Quốc tế của các tác giả tại Học viện tăng so với những năm học trước. Tổng số 58 bài viết của các tác giả có nhiều bài viết đăng trên Tạp chí thuộc danh mục ISI/SCOPUS.

Bảng 2:Hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên từ năm học 2014 -2015 đến năm học 2018 -2019

STT

Nội dung

2014- 2015

2015-2016

2016-2017

2017-2018

2018-2019

1

Số Nội san SV NCKH đã phát hành

12

12

12

12

12

2

Số lượng bài báo của SV đăng Nội san SV NCKH

260

231

228

216

225

3

Số lượng công trình KH SV dự thi cấp Khoa

162

212

219

179

234

4

Số lượng công trình KH SV dự thi cấp Học viện

62

65

65

60

64

5

Số lượng công trình KH SV dự thi cấp Bộ

-

3

7

7

7

6

Số lượng công trình KH SV đạt giải cấp Bộ

-

2

4

1

2

7

Số lượng hội thảo KH SV đã tổ chức

8

11

10

10

11

8

Số lượng bài của SV đăng kỷ yếu HT KH SV

208

401

364

356

371

 

Nguồn: Tổng hợp của Ban Quản lý Khoa học

 

- Hoạt động NCKH sinh viên:Trong 5 năm qua (2015 – 2019), Học viện đã xuất bản 60 số Nội san sinh viên với hơn 1050 bài viết; Học viện tổ chức 50 Hội thảo khoa học sinh viên với 1.740 bài viết; Tổ chức 25 Festival, hơn 08 cuộc thi Olympic và10 tọa đàm; 316 công trình dự thi dự thi cấp Học viện, 24 công trình NCKH sinh viên dự thi Cấp Bộ cũng như tham gia các giải thưởng nghiên cứu khoa học khác và đã đạt được nhiều thành tích.

Có thể khẳng định, hoạt động nghiên cứu KH&CN của đội ngũ cán bộ, giảng viên Học viện đã có những đóng góp đáng kể vào thành tích chung của Học viện

- Hệ thống giáo trình, đề cương bài giảng, tài liệu tham khảo phong phú đa rạng có chất lượng tốt phục vụ công tác giáo dục, đào tạo.

- Nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN của Học viện hiện nay được phân cấp quản lý rõ ràng: Cấp khoa, cấp viện, cấp học viện, cấp bộ, cấp ngành, cấp địa phương và cấp nhà nước cũng như quốc tế;

- nhiều đề tài nghiên cứu cấp cao đã góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng áp dụng trong giảng dạy và học tập phù hợp với các chuyên ngành đào tạo.

Tuy nhiên, công tác NCKH vẫn còn một số hạn chế:

 (i) Mặc dù sản phẩm có chất lượng cao nhưng lại hạn chế về vấn đề công bố, chưa đa dạng về ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ quốc tế;

(ii) Việc xã hội hóa các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN chưa đồng đều ở các chuyên ngành, còn nhiều chuyên ngành có lợi thế nhưng chưa khai thác được các đề tài, đề án gắn kết với nhu cầu xã hội xã hội hóa các nhiệm vụ nghiên cứu KH &CN;

(iii) Hoạt động KH&CN chưa mở rộng ra phạm vi khu vực và quốc tế nên nguồn thu từ nước ngoài là không đáng kể;

(iv)Nguồn kinh phí đầu tư cho nghiên cứu KH&CN còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất phục vụ cho nghiên cứu KH&CN chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra....

4. Định hướng hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của Học viện Tài chính trong giai đoan tới

Hoạt động NCKH và công nghệ của Học viện được thực hiện theo kế hoạch cũng như chủ trương xã hội hóa và có kết quả lớn về số lượng, cao về chất lượng mang lại nguồn thu ngày càng nhiều, góp phần quan trọng vào thực hiện sứ mạng của HVTC cũng như phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của nước nhà.

Mục tiêu chính của các hoạt động NCKH và công nghệ của Học viện là nhằm phục vụ việc đảm bảo và nâng cao chất lượng đào tạo, đồng thời là trung tâm nghiên cứu phục vụ việc điều hành, quản lý nhà nước của BTC về các vấn đề kinh tế - tài chính trong mỗi giai đoạn cụ thể.

Cùng với sự phát triển của Học viện, kết quả nghiên cứu KH&CN tăng nhanh về số lượng và chất lượng qua các năm, qua đó đã khẳng định được sứ mệnh mà HVTC đã đặt ra. Trên cơ sở chiến lược nghiên cứu khoa học và công nghệ của Nhà nước, Bộ ngành, HVTC đã chủ động xây dựng kế hoạch hoạt động nghiên cứu KH&CN bao gồm: kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn và ngắn hạn. Các kế hoạch nghiên cứu KH&CN luôn gắn với sứ mạng “Cung cấp các sản phẩm đào tạo và nghiên cứu khoa học tài chính – kế toán chất lượng cao cho xã hội”, được đặt ra trong bối cảnh mới: Khoa học và công nghệ đổi mới sáng tạo. Để nâng cao hơn nữa vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện đáp ứng yêu cầu mới đặt ra thì định hướng hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ của Học viện Tài chính trong giai đoan tới như sau:

- Khuyến khích các đơn vị và cá nhân đăng ký thực hiện đề tài cấp Học viện, cấp Khoa gắn với nhiệm vụ giảng dạy các chuyên ngành trong Học viện; Các đơn vị và cá nhân đăng ký, đấu thầu các nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN cấp cao: Cấp bộ, cấp ngành, cấp địa phương, cấp quốc gia và hợp tác nghiên cứu quốc tế; Tập trung cho việc biên soạn, xuất bản giáo trình, bài giảng gốc, tài liệu học tập phục vụ cho giảng dạy; Tạo điều kiện để các đơn vị và cá nhân tham gia biên soạn các tài liệu tham khảo, chuyên khảo liên quan đến nội dung của các môn học thuộc các chuyên ngành đào tạo của Học viện, tham gia đề tài, viết bài đăng tạp chí và hội thảo quốc tế, biên dịch tài liệu phục vụ giảng dạy và nghiên cứu; Đẩy mạnh xã hội hóa nghiên cứu khoa học thông qua các hình thức: đăng ký đề tài cấp Học viện, chuyển giao đề tài, phối hợp với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN…bằng nguồn xã hội hóa.

-Nghiên cứu về các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô và vi mô, tác động của hội nhập và biến đổi khi hậu đến kinh tế; Cải cách tổng thể chính sách thu - chi ngân sách để cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng tích cực; Nghiên cứu các vấn đề đặt ra cho tài chính công trong bối cảnh mới; Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính nhằm góp phần cải thiện, nâng cấp môi trường kinh doanh đáp ứng yêu cầu tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN, và các đối tác Hiệp định thương mại tự do; Đổi mới chính sách tài chính quốc gia (quan điểm, cơ chế, chính sách…) những vấn đề liên quan đến chính sách thuế, thị trường tài chính; khai thác tối đa nguồn lực, công nghệ và tạo động lực cho thời kỳ phát triển mới với tầm nhìn đến năm 2045; Nghiên cứu phương thức, cơ chế và chính sách mới nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn lực phát triển (năng lực quản lý, kỹ năng lập dự án kinh doanh và vấn đề công khai hóa, minh bạch hóa tài chính doanh nghiệp, năng lực cạnh tranh, chiến lược phát triển…);

- Nghiên cứu, đổi mới kế toán, kiểm toán lĩnh vực phù hợp với chiến lược phát triển kế toán và kiểm toán đến năm 2030 và tầm nhìn 2045; Nghiên cứu về kinh tế số, kinh tế chia sẻ, cách mạng công nghiệp 4.0, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo, tái cơ cấu kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng…Cũng như thúc đẩy, tạo điều kiện cho các đơn vị, cá nhân trong Học viện thực hiện việc thương mại hóa, chuyển giao sản phẩm khoa học và công nghệ; Tăng cường hợp tác với các tập đoàn, tổng công ty lớn thực hiện hợp tác nghiên cứu gắn với chuyển giao công nghệ; Đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế về nghiên cứu khoa học và công nghệ nhằm nâng cao vị thế của Học viện.

Tài liệu tham khảo

1. Quyết định số 418/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 – 2020.

2. Học viên Tài chính (2019): “Đổi mới quản lý khoa học tại Học viện Tài chính”, Đề án.

3. Học viện Tài chính (2018): “Học viện Tài chính 55 năm xây dựng và phát triển”, Hội thảo khoa học.

4. Học viện Tài chính (2019): “Phát triển giáo dục đại học trong bối cảnh hiện nay: Thực trạng tại Học viện Tài chính và các giải pháp đặt ra”, Hội thảo khoa học quốc gia

5. Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường tổ chức Hội thảo khoa học (2019) “Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ khoa học và công nghệ giai đoạn 2021-2030, kế hoạch 5 năm 2021-2025”. Hội thảo khoa học.

6.http://cesti.gov.vn/thong-ke/12/chuong-1-cac-chu-truong-chinh-sach-cua-quoc-gia-ve-khoa-hoc-va-cong-nghe

7.http://www.tapchicongsan.org.vn/;8.http://chinhphu.vn/a; 9.https://www.mof.gov.vn; 10. https://thuvienphapluat.vn/

PGS.TS.NGƯT. Nguyễn Trọng Cơ; PGS.TS.NGƯT. Ngô Thanh Hoàng.

Số lượt đọc: 2656


Trở về đầu trang